Hành động của họ bị điều khiển bởi hệ thần kinh thực vật nhiều hơn là bởi não bộ. Bởi thế, theo quan điểm xã hội học, trong thực tế không có sự cao thấp của các ý tưởng, có nghĩa là không có quan điểm này cao hơn quan điểm kia. Sự thiếu vắng hoàn toàn khả năng xét đoán đã làm cho họ không thể nhận ra được các mâu thuẫn.
Đây cũng là một điều nan giải. Có thể lấy các bầy lũ man rợ có xuất xứ khác nhau trong suốt nhiều thế kỷ đã từng tàn phá đế chế Rôm làm ví dụ cho dạng đám đông này. Các triết gia đã đi đến kết luận như sau về quan hệ bất cập ngày càng tăng của nền giáo dục của các dân tộc La tinh chúng ta đối với cuộc sống:
Nó là như vậy ở tất cả các thời đại. Chúng ta hãy xem xét một giai đoạn ngắn trong lịch sử của chính mình, cụ thể từ năm 1790 đến năm 1820, khoảng thời gian cỡ bằng cuộc đời một con người. Để thiết lập nền tảng cho các niềm tin chung hoặc để bảo tồn chúng, ở thời trung cổ người ta đã dựng lên nhiều dàn hỏa thiêu, và nhiều nhà phát minh, nhiều nhà cải cách tưởng tránh được đàn áp thì lại phải chết trong sự tuyệt vọng.
Chừng nào một đơn vị hành chính công bố “pronunciamento” (tuyên ngôn) của nó thì vấn đề quan tâm đầu tiên sẽ là việc phá hủy các trạm điện tín và hệ thống xe lửa để cắt đứt liên lạc với các vùng xung quanh và với thủ đô Madrid. Sự ồn ào đã đến mức không thể chịu đựng nổi. Các nhà triết học và các nhà sử học đã cố gắng một cách tuyệt vọng để chứng minh sự vô nghĩa của nó.
Một đám đông không nhất thiết phải có thật nhiều người mới có thể mất đi khả năng nhìn đúng sự vật và thay thế những cái thực bằng những ảo ảnh. Cá tính có ý thức bị biến mất, tình cảm và suy nghĩ của mọi cá nhân đều hướng về một phía. Động lực hàng đầu cần phải phân tích là chủng tộc, bởi vì chỉ riêng nó đã mang nhiều ý nghĩa hơn tất cả những thứ còn lại.
Họ không có khả năng tự điều khiển mình; vì vậy lãnh đạo phục vụ họ với tư cách là người chỉ lối. Thay vì mỗi ngày mất một vài xu, điều người ta không cảm nhận thấy, thì việc lấy đi một tổng lượng tiền tương đương nhằm ngày phát lương tạo ra cảm giác như bị mất một khoản tiền lớn và có ấn tượng rất mạnh. Đến chừng nào nó không còn quyền lực nữa, tất cả những gì được nó chống đỡ sẽ sụp đổ hoàn toàn.
Kết quả cuối cùng của sự mất phương hướng hoàn toàn của dư luận và sự đồng thời mất đi của các niềm tin cơ bản là sự tan vỡ đối với tất cả các quan điểm và sự vô cảm ngày càng tăng của đám đông, giống như là một người chống lại tất cả những gì không động chạm đến lợi ích sát nách của anh ta. Uy lực biến đi luôn đúng vào cái thời điểm xảy ra sự thất bại. Người ta giật mình khi nghĩ đến cái quyền lực của một con người đã đạt đến nhờ biết cách bao bọc quanh mình một uy lực qua việc kết nối niềm tin mãnh liệt với sự đặc biệt giới hạn về mặt trí tuệ.
Ai muốn được đám đông ngưỡng mộ, người đó lúc nào cũng phải nên giữ một khoảng cách đối với họ. Tôi đã nói, rằng những con người khi đã trở thành thành viên của đám đông, họ sẽ có xu hướng có chung một mức độ trí tuệ giống nhau, chúng ta sẽ tìm ra những ví dụ để chứng minh cho điều này. Trong sự bừng tỉnh của các nền văn hóa này, một bầy đoàn những con người có nguồn gốc khác nhau, đã tình cờ quy tụ lại qua các cuộc hành trình, qua những cuộc tấn công và xâm chiếm.
Cái này các tác giả chuyên nghiên cứu về đám đông chỉ trên phương diện tội phạm đã hoàn toàn không nhận ra. Bằng cách giải thích như vậy cho trường hợp, xảy ra cũng khá lâu, về một người mẹ dường như nhận ra xác chết của con mình, như sẽ trình bày sau đây, đã làm sáng tỏ hai hình thức tác động, mà quá trình hình thành nên chúng, tôi cũng đã đề cập đến. Cái một thời được coi là một dân tộc, là một sự thống nhất, là một khối, cuối cùng sẽ trở nên một đám những kẻ riêng biệt chẳng còn liên quan gì đến nhau và chỉ được kết dính lại một cách nhân tạo qua những truyền thuyết và các thiết chế.
Sự đồng nhất của môi trường, sự lai giống thường xuyên, nhu cầu của một đời sống tập thể đã dần dần phát huy tác động. Điều này tự nó giải thích vì sao đám đông có xu hướng bạo loạn nghiêm trọng. Sự xóa bỏ này làm tắc nghẽn những cội nguồn của hy vọng và dâng hiến.